Tác phẩm Franz_Kafka

Trang đầu "Thư gửi cha" của Kafka

Tất cả các tác phẩm được xuất bản của Kafka đều được viết bằng tiếng Đức, trừ vài bức thư tiếng Séc viết cho Milena Jesenská. Số ít ỏi những tác phẩm được xuất bản khi ông sinh thời thu hút rất ít sự chú ý của công chúng.

Kafka chưa hoàn thành một tiểu thuyết nào trọn vẹn và đốt bỏ khoảng 90 phần trăm tác phẩm của chính mình[105][106], hầu hết trong thời kỳ ông sống ở Berlin với sự trợ giúp của người tình Diamant[107]. Trong những năm đầu văn nghiệp, ông chịu ảnh hưởng của Heinrich von Kleist người mà các tác phẩm được Kafka miêu tả là đáng sợ trong một bức thư gửi Bauer và là người ông xem là gần gũi hơn cả gia đình mình[108].

Truyện

Các tác phẩm được xuất bản sớm nhất của Kafka là tám truyện ngắn xuất hiện năm 1908 trong số đầu của tạp chí văn học Hyperion dưới tựa đề Betrachtung ("Trầm tư"). Ông viết "Mô tả một trận chiến" ("Beschreibung eines Kampfes") năm 1904, rồi một năm sau ông đưa cho Brod, người khuyên ông tiếp tục viết và thuyết phục ông đăng nó lên tờ Hyperion. Kafka đã xuất bản một đoạn vào năm 1908[109] và hai đoạn năm 1909, tất cả ở München[110].

Trong một cơn bùng nổ sáng tạo vào đêm ngày 22 tháng 9 năm 1912, Kafka đã sáng tác truyện "Lời tuyên án" (Das Urteil) và đề tặng nó cho Felice Bauer. Brod chỉ ra sự tương đồng trong tên gọi nhân vật chính cùng hôn thê hư cấu của anh ta, Georg Bendemann và Frieda Brandenfeld, với Franz Kafka và Felice Bauer trong đời thực[e][111]. Truyện ngắn này được xem như tác phẩm đột phá của Kafka. Nó đề cập tới mối quan hệ khó khăn giữa một người con trai và một người cha chuyên quyền, đối diện một tình huống mới khi người con đính hôn[112][113]. Kafka về sau kể lại là đã viết trong "một sự khai mở trọn vẹn của thể xác và linh hồn"[114] một câu chuyện "sống dậy như một sự sinh nở thực sự, bị bao phủ bởi những thứ bẩn thỉu và nhớp nhúa"[115]. Truyện này được xuất bản lần đầu ở Leipzig năm 1912 và đề tặng "cho Quý cô Felice Bauer", và trong các lần ấn bản sau viết tắt là "cho F."[63].

Năm 1912, Kafka viết truyện dài "Hóa thân" (Die Verwandlung)[116], xuất bản năm 1915 ở Leipzig. Câu chuyện bắt đầu với một người giao hàng lưu động tỉnh dậy và thấy mình đã biến đổi thành một con sâu khổng lồ gớm ghiếc (ungeheuren Ungeziefer). Các nhà phê bình xem tác phẩm này là một trong những tác phẩm hư cấu sáng tạo nhất của thế kỷ 20[117][118][119]. Truyện "Trại lao cải" (In der Strafkolononie), nói về một thiết bị hành hình và tra tấn tinh vi, được viết vào tháng 10 năm 1914[63], sửa lại năm 1918, và xuất bản ở Leipzig tháng 10 năm 1919. Truyện "Nghệ sĩ nhịn đói" (Ein Hungerkünstler) in trên tập san [Die neue Rundschau] lỗi: {{lang}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp) năm 1924, mô tả một nhân vật chứng kiến ngày càng thưa thớt người quan tâm tới màn biểu diễn nhịn ăn lạ lùng của mình[120]. Truyện cuối cùng của ông, "Nữ ca sĩ Josefine, hay truyện kể về dân chuột" (Josefine, die Sängerin oder Das Volk der Mäuse), cũng liên quan tới mối quan hệ giữa nghệ sĩ và khán giả của họ[121].

Tiểu thuyết

Kafka bắt đầu dự án tiểu thuyết đầu tiên vào năm 1912[122], chương đầu của nó là truyện "Người đốt lò" (Der Heizer). Kafka gọi tác phẩm vẫn chưa hoàn thành này là Der Verschollene ("Người mất tích") nhưng khi Brod xuất bản nó sau khi Kafka mất, ông đặt tên nó là Amerika ("Nước Mỹ")[123]. Cảm hứng cho tiểu thuyết này đến từ lần tham dự vào đám đông khán giả tại nhà hát Yiddish năm trước đó đã đem lại cho ông nhận thức mới về di sản của mình, từ đó làm nảy sinh ý nghĩ rằng có một khả năng đánh giá bẩm sinh về di sản của người ta nằm sâu bên trong mỗi con người[124]. Rõ ràng hóm hỉnh hơn và có phần hiện thực hơn hầu hết các tác phẩm khác của Kafka, tuy nhiên tiểu thuyết này chia sẻ cùng môtip về một hệ thống mơ hồ và ngột ngạt không ngừng áp đặt nhân vật chính vào những hoàn cảnh kỳ quái[125]. Nó sử dụng nhiều chi tiết trong những trải nghiệm của họ hàng ông, những người đã tới nước Mỹ[126] và là công trình duy nhất mà Kafka từng cân nhắc một kết thúc lạc quan[127].

Năm 1914, Kafka bắt tay vào tiểu thuyết "Vụ án" (Der Process)[110], một câu chuyện về một người đàn ông tên là Josef K. bị bắt giữ và thẩm vấn bởi một chính quyền ở xa, không thể tiếp cận được, mà bản chất hành vi phạm tội của anh ta là gì cả chính anh ta và độc giả đều không được biết. Kafka chưa hoàn thành cuốn tiểu thuyết, mặc dù ông đã kết thúc chương đầu. Theo nhà văn được giải Nobel và là một học giả về Kafka Elias Canetti, Felice nằm ở trung tâm cốt truyện của "Vụ án" mà Kafka từng gọi là "truyện của cô ấy"[128][129]. Canetti đặt tựa đề cuốn sách của ông về các lá thư của Kafka cho Felice là "Vụ án khác của Kafka", ám chỉ nhận thức về mối quan hệ giữa những bức thư và tiểu thuyết[129]. Michiko Kakutani lưu ý trong một bài bình luận trên tờ The New York Times rằng những lá thư của Kafka có "những chỉ dấu về tiểu thuyết của ông; cùng mối quan tâm tới những chi tiết tỉ mỉ; cùng ý thức hoang tưởng về sự dịch chuyển cân bằng quyền lực; cùng không khí của sự ngột ngạt cảm xúc – trộn với, vừa đủ một cách đáng kinh ngạc, những nhiệt tình và khoái cảm ngây thơ"[129].

Theo nhật ký của ông, Kafka đã đang chuẩn bị cho tiểu thuyết "Lâu đài" (Das Schloss) ngày 11 tháng 6 năm 1914, tuy nhiên phải đến 27 tháng 1 năm 1922 ông mới bắt đầu viết nó[110]. Nhân vật chính là một nhân viên đạc điền (Landvermesser) tên là K., người đấu tranh vì những lý do không rõ ràng để tiếp cận nhà cầm quyền huyền bí của một lâu đài cai trị một ngôi làng. Ý đồ của Kafka là chính quyền lâu đài thông báo cho K. vào lúc anh hấp hối rằng "những yêu cầu chính thức muốn sống ở làng là không có hiệu lực, tuy nhiên, xét đến những hoàn cảnh phụ nào đó, anh ta được phép sống và làm việc ở đây[130]". Tối tăm và có những đoạn siêu thực, tiểu thuyết tập trung vào sự ghẻ lạnh của xã hội, tính quan liêu, sự vỡ mộng dường như vô hạn của nỗ lực con người nhằm chống lại hệ thống, và sự truy tìm vô ích và vô vọng cho một mục đích không thể đạt tới. Harmut M. Rastalsky viết trong luận văn của ông: "Giống như những giấc mơ, các văn bản của ông chứa những chi tiết 'hiện thực' cùng với sự phi lý, sự quan sát và suy luận cẩn thận về phần các nhân vật chính với sự đãng trí và vô ý không thể giải thích nổi"[131].

Lịch sử xuất bản

Ấn bản lần thứ nhất của tập "Trầm tư" (Betrachtung, 1912.

Các truyện của Kafka ban đầu được xuất bản trong các tạp chí văn học. Tám truyện đầu được in năm 1908 trong số đầu của tập san hai tháng một kỳ Hyperion[132]. Franz Blei đã xuất bản hai đối thoại vào năm 1909 về sau trở thành một phần của "Mô tả một trận đánh" (Beschreibung eines Kampfes). Một đoạn bài viết "Những chiếc phi cơ ở Bresica" (Die Aeroplane in Brescia), được viết trong một chuyến đi tới Ý cùng Brod, xuất hiện trên tờ nhật báo Bohemia vào 28 tháng 9 năm 1909[132][133]. Ngày 27 tháng 3 năm 1910, một số truyện về sau trở thành một phần của cuốn "Trầm tư" (Betrachtung) được đăng trong ấn phẩm nhân dịp Phục sinh của tờ Bohemia[132][134]. Ở Leipzig trong năm 1913, Brod và nhà xuất bản Kurt Wolff đưa "Vụ án. Một truyện của Franz Kafka." (Das Urteil. Eine Geschichte von Franz Kafka.) vào niên giám văn học cho thơ nghệ thuật Arkadia của họ. Truyện "Trước cửa pháp luật" (Vor dem Gesetz) được in trong ấn bản cho dịp Năm Mới 1915 trong tờ tuần báo độc lập của người Do Thái Selbtwehr, sau được in lại năm 1919 trong tập truyện "Một thầy thuốc nông thôn" (Ein Landarzt) và trở thành một phần của tiểu thuyết "Vụ án". Các truyện khác được xuất bản trong những dịp khác nhau, bởi tạp chí Der Jude của Max Brod, báo Prager Tagblatt và tạp chí Die neue Rundschau,Genius, Prager Presse[132].

Cuốn sách đầu tiên của Kafka, "Trầm tư" (Betrachtung), là một tập hợp những truyện ngắn được viết từ năm 1904 tới 1912. Trong một chuyến đi chơi mùa hè tới Weimar, Brod đề xuất một cuộc gặp giữa Kafka và Kurt Wolff[135]; Wolff sau đó đã xuất bản tập truyện này vào cuối năm 1912 ở nhà xuất bản Rowohlt Verlag (năm đề xuất là 1913)[136]. Kafka đề tặng nó cho Brod ("Für M.B.") và ghi thêm vào bản in riêng để cho bạn ông "So wie es hier schon gedruckt ist, für meinen liebsten Max — Franz K." ("Như đã được in ở đây, cho người bạn thân mến nhất Max")[137].

Truyện "Hóa thân" được xuất bản lần đầu tiên trong số tháng 10 năm 1915 của Die Weißen Blätter, một nguyệt san văn học biểu hiện chủ nghĩa, do René Schickele biên tập[136]. Một tập truyện khác của Kafka, "Thầy thuốc nông thôn" được Kurt Wolff phát hành vào năm 1919[138], đề tặng cho bố ông[139]. Kafka đã chuẩn bị một tuyển tập cuối cùng gồm bốn truyện để in với tên Ein Hungerkünstler ("Nghệ sĩ nhịn đói"), xuất hiện vào năm 1924 sau cái chết của ông, bởi nhà xuất bản Verlag Die Schmiede. Ngày 20 tháng 4 năm 1924, nhà xuất bản Berliner Börsen-Courier phát hành tiểu luận của Kafka về nhà văn Adalbert Stifter[140].

Max Brod

Ấn bản lần thứ nhất của tiểu thuyết "Lâu đài", 1926.

Kafka để lại tác phẩm của ông, cả xuất bản lẫn chưa xuất bản, cho bạn của ông là Max Brod, với những chỉ dẫn rõ ràng rằng chúng phải bị tiêu hủy sau khi ông mất; Kafka viết: "Max thân yêu nhất, yêu cầu cuối cùng của tôi: Mọi thứ tôi để lại đằng sau... theo nghĩa các cuốn nhật ký, bản thảo, thư từ (của tôi hay gửi cho tôi), phác thảo, và tương tự, phải bị đốt bỏ mà không đọc"[141][142]. Brod quyết định làm ngơ yêu cầu này và xuất bản các tiểu thuyết và tuyển tập từ năm 1925 tới 1935. Ông mang nhiều trang viết chưa được xuất bản cùng mình trong các vali tới Palestine khi ông chạy trốn tới đây vào lúc Thế chiến hai bùng nổ năm 1939[143]. Người tình cuối cùng của Kafka, Dora Diamant, cũng bỏ qua ước nguyện của ông, bí mật giữ 20 sổ tay và 35 lá thư. Chúng bị Gestapo tịch thu năm 1933, và nay các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm kiếm[144].

Khi Brod xuất bản phần lớn di cảo Kafka thuộc sở hữu của ông, tác phẩm Kafka bắt đầu thu hút sự chú ý rộng hơn cũng như sự tán thưởng từ giới phê bình[145]. Brod cảm thấy khó khăn để biên soạn những sổ tay của Kafka theo thứ tự thời gian. Một vấn đề là Kafka thường bắt đầu viết ở những phần khác nhau của cuốn sổ; đôi khi ở giữa, có lúc viết ngược từ cuối sổ[146][147]. Brod đã hoàn thành nhiều tác phẩm chưa viết xong của Kafka để có thể xuất bản chúng. Chẳng hạn, Kafka để cuốn "Vụ án" lại với những chương chưa hoàn thành và không đánh số còn "Lâu đài" với những câu chưa hoàn thành và nội dung mơ hồ[147]; Brod đã sắp xếp lại các chương, thảo sao văn bản và thay đổi dấu chấm câu. "Vụ án" xuất hiện năm 1925 trên nhà sách Verlag Die Schmiede. Kurt Wolff xuất bản hai tiểu thuyết khác, "Lâu đài" năm 1926 và "Nước Mỹ" năm 1927. Năm 1931, Brod biên tập một tuyển tập văn xuôi và các truyện chưa xuất bản thành cuốn "Vạn Lý Trường Thành Trung Hoa" (Beim Bau der Chinesischen Mauer), theo tên một truyện trong đó. Cuốn sách xuất hiện trên kệ sách của nhà xuất bản Gustav Kiepenheuer Verlag. Các tuyển tập của Brod thường được gọi tên là Những Ấn bản Cuối cùng[148].

Các ấn bản hiện đại

Năm 1961, sau khi thương thuyết với Brod và họ hàng Kafka, Malcolm Pasley được phép đem phần lớn các bản thảo gốc viết tay của Kafka tới lưu trữ tại Thư viện Bodleian của Đại học Oxford[149][150]. Riêng các trang viết về "Vụ án" về sau được bán đấu giá và được lưu trữ lại Phòng Lưu trữ Văn học Đức ở Marbach am Neckar, Đức[150][151]. Sau đó, Pasley lãnh đạo một nhóm (bao gồm Gerhard Neumann, Jost Schillement và Jürgen Born tái dựng lại các tiểu thuyết; và nhà xuất bản S. Fischer Verlag tái bản chúng[152]. Pasley biên tập lại "Lâu đài", được xuất bản năm 1982, và "Vụ án" năm 1990. Jost Schillement thì biên tập "Nước Mỹ" xuất bản năm 1983. Chúng được gọi là "Những Ấn bản Phê bình" hay "Những Ấn Bản Fischer"[153].

Các bài viết chưa xuất bản

Khi Brod mất vào năm 1968, ông để lại các trang viết chưa xuất bản của Kafka, được cho là lên tới hàng ngàn trang, cho thư ký của ông là Esther Hoffe[154]. Bà đã bán một số, nhưng phần lớn chúng được để lại cho hai con gái của bà, Eva và Ruth, những người cũng từ chối phát hành hoặc nhượng lại các trang viết. Một cuộc tranh luận tại tòa đã bắt đầu từ năm 2008 giữa hai chị em nhà Hoffe với Thư viện Quốc gia Isael, cơ quan tuyên bố những công trình này đã trở thành tài sản của dân tộc Israel khi Brod di cư tới Palestine năm 1939. Esther Hoffe đã bán bản thảo gốc của "Vụ án" với giá 2 triệu USD năm 1988 cho Bảo tàng Văn học Hiện đại của Phòng Lưu trữ Văn học Đức ở Marbach am Neckar[105][155]. Cho đến năm 2012 chỉ còn bà Eva còn sống[156]. Một phán quyết của tòa án Tel Aviv năm 2010 nói rằng các trang viết phải được phát hành và điều đó đã được thực hiện với một phần nhỏ, bao gồm một vài truyện trước đây chưa biết, nhưng cuộc tranh cãi luật pháp vẫn tiếp diễn[157]. Nhà Hoffes tuyên bố các trang viết là sử hữu tư nhân của họ, trong khi Thư viện Quốc gia Israel khẳng định chúng là "những tài sản văn hóa thuộc về dân tộc Do Thái"[157]. Họ cũng gợi ý rằng Brod truyền lại chúng cho họ theo di nguyện. Tòa án Tel Aviv đã ra án quyết vào tháng 10 năm 2012 rằng các trang viết là tài sản của Thư viện Quốc gia[158].

Nhận định phê bình

Nhiều nhà phê bình ca ngợi văn chương Kafka. Nhà thơ W. H. Auden gọi Kafka là "Dante của thế kỷ hai mươi"[159]; tiểu thuyết gia Vladimir Nabokov xếp ông vào số những nhà văn vĩ đại nhất thế kỷ 20[160]. Nhà văn Gabriel García Márquez nhận xét việc đọc "Hóa thân" của Kafka cho ông thấy "không thể nào viết theo một cách khác"[95][161]. Chủ đề cốt lõi trong tác phẩm Kafka, xuất hiện ngay trong tác phẩm được in đầu tiên "Lời tuyên án"[162] là mâu thuẫn cha-con: tội lỗi ở người con được giải quyết bằng đau đớn và chuộc tội[12][162]. Những chủ đề và nguyên mẫu nổi bật khác bao gồm sự ghẻ lạnh, sự dã man về thể xác và tâm lý, các nhân vật trong cuộc điều tra đáng sợ, và sự biến đổi kỳ bí[163].

Văn phong Kafka được so sánh với Kleist ngay từ năm 1916, trong một bài bình luận về "Hóa thân" và "Người đốt lò" bởi Oscar Walzel trên tờ Berliner Beiträge[164]. Bản chất văn xuôi Kafka cho phép những diễn giải và phê bình khác nhau xếp ông vào nhiều trường phái văn chương khác nhau[92]. Chẳng hạn, những người marxist bất đồng gay gắt về cách diễn giải tác phẩm của Kafka[86][92]. Một số buộc tội ông bóp méo hiện thực trong khi những người khác tuyên bố ông đã chỉ trích chủ nghĩa tư bản[92]. Sự vô vọng và phi lý phổ biến trong truyện của ông được xem như dấu hiệu của chủ nghĩa hiện sinh[165]. Một vài sách của Kafka chịu ảnh hưởng từ phong trào chủ nghĩa biểu hiện, tuy nhiên văn ông phần đa liên hệ với thể loại văn học hiện đại chủ nghĩa kinh nghiệm. Kafka cũng động chạm tới chủ đề mâu thuẫn của con người với thể chế quan liêu. William Burrows cho rằng tác phẩm của ông tập trong vào các quan niệm về đấu tranh, thương đau, cô đơn, và nhu cầu quan hệ giữa con người[166]. Những người khác, như Thomas Mann, xem tác phẩm của Kafka có tính chất ngụ ngôn: một cuộc tìm kiếm, siêu hình về bản chất, hướng tới Chúa[167][168].

Theo Gilles DeleuzeFélix Guattari, những chủ đề về sự ghẻ lạnh và ngược đãi, dù có hiện diện trong Kafka, nhưng đã bị giới phê bình nhấn mạnh quá mức. Họ lập luận rằng tác phẩm của Kafka là có chủ tâm và có tính lật đổ hơn – và cả vui vẻ hơn – là nó tỏ ra ban đầu. Họ chỉ ra rằng việc đọc tác phẩm của ông trong khi tập trung vào sự vô ích của cuộc chiến đấu mà các nhân vật tiến hành thể hiện sự bông lơn của ông; ông không nhất thiết đang bình luận về những vấn đề của chính ông, mà đúng hơn là đang chỉ ra người ta có xu hướng bịa nên những vấn đề như thế nào. Trong tác phẩm của mình, Kafka thường tạo ra những thế giới độc ác, phi lý[169][170]. Kafka đã đọc bản thảo tác phẩm của mình cho bạn bè, thường tập trung vào những đoạn văn xuôi hài hước của ông. Nhà văn Milan Kundera đề xuất rằng tính hài hước siêu thực của Kafka có thể là sự đảo ngược của Dostoevsky, người đưa ra những nhân vật chịu hình phạt do một tội ác. Trong tác phẩm của Kafka một nhân vật sẽ bị trừng phạt mặc dù tội ác còn chưa được thực hiện. Kundera tin rằng cảm hứng của Kafka dành cho những tình huống đặc thù của ông đến từ việc lớn lên trong một gia đình gia trưởng cũng như sống trong một nhà nước chuyên chế[171].

Đã có những nỗ lực nhằm xác định ảnh hưởng của kiến thức ngành tư pháp của Kafka và vai trò của pháp luật trong tác phẩm của ông[172]. Hầu hết những lối diễn giải xác định những khía cạnh của luật và thủ tục pháp luật là quan trọng trong văn ông[173], trong đó hệ thống luật pháp thường ngột ngạt[174]. Pháp luật trong văn Kafka, thay vì có tính đại diện cho bất kì thực thể chính trị hay tư pháp cụ thể nào, thường được diễn giải như biểu hiện một tập hợp những thế lực vô danh, không thể hiểu thấu được. Chúng bị che khuất với mỗi cá nhân nhưng lại điều khiển đời sống của con người, những nạn nhân vô tội của những hệ thống nằm ngoài sự kiểm soát của họ[173]. Các nhà phê bình ủng hộ cách diễn giải theo thuyết phi lý này trích dẫn các trường hợp trong đó Kafka mô tả chính mình trong mối mâu thuẫn với một thế giới phi lý, như trong đoạn nhật ký sau:

Đóng kín trong bốn bức tường, tôi thấy mình như một kẻ di cự bị tống giam ở một nước xa lạ... Tôi thấy gia đình mình như những người ngoại quốc lạ lùng mà những tập tục, nghi thức và chính ngôn ngữ của họ thách đố sự tìm hiểu... mặc dù tôi không muốn thế, họ vẫn bắt tôi phải tham gia vào những nghi lễ kỳ quái của họ... Tôi không thể kháng cự lại[175].

Tuy nhiên, James Hawes khẳng định rằng nhiều trong số những mô tả của Kafka về trình tự luật pháp trong "Vụ án" – dường như siêu hình, phi lý, như ác mộng và gây bối rối - thực tế dựa trên những mô tả thông thạo và chính xác về thủ tục hình sự Áo và Đức thời đó, có tính thẩm tra (inquisitorial) hơn là hồi tố (adversarial)[176]. Mặc dù làm trong ngành bảo hiểm, Kafka được đào tạo thành luật sư nên "nhận thức sâu sắc về những tranh cãi tư pháp đương thời"[177]. Trong một công bố đầu thế kỷ 21 sử dụng các trang viết của Kafka làm điểm xuất phát, Pothik Ghosh khẳng định với Kafka, luật pháp "không có ý nghĩa gì ngoài sự thực nó là một thế lực cai trị và quyết định thuần túy"[178].

Các bản dịch

Tác phẩm của Kafka được dịch đầu tiên là truyện "Người đốt lò" (Der Heizer) do Milena Jesenská dịch sang tiếng Séc năm 1919; đây cũng là bản dịch duy nhất khi Kafka còn sống[179]. Sau khi Brod xuất bản phần lớn tác phẩm của Kafka, chúng bắt đầu thu hút được sự chú ý và được dịch sang các ngôn ngữ khác. Bản dịch Kafka sang tiếng Anh đầu tiên là "The Castle" (từ tiểu thuyết "Lâu đài") của Edwin Muir, được nhà xuất bản Secker & Warburg ở Anh và Alfred A. Knopf ở Hoa Kỳ phát hành năm 1930[180]. Việc xuất bản Kafka bị đình trệ những năm sau đó do chế độ quốc xã Đức ra lệnh cấm các tác phẩm Do Thái; chủ nhà xuất bản Salman Shocken được Max Brod ủy quyền đã xuất bản các bản dịch tiếng Hebrew đầu tiên ở Palestine vào năm 1939[181]. Sau chiến tranh, các bản dịch tiếng Anh của tác phẩm Kafka được hiệu đính và tái bản ở Mỹ năm 1946; kể từ đây danh tiếng Kafka lớn lên rất nhanh và tác phẩm của ông được dịch ra rất nhiều thứ tiếng[182]. Do tình trạng di thảo Kafka được biên tập nhiều lần đã nhắc ở trên dẫn đến nhiều văn bản dịch khác nhau về câu chữ trong cùng một ngôn ngữ.

Trong tiếng Việt, các bản dịch Nhật ký Kafka và truyện ngắn của Kafka được Đoàn Tử Huyến và Dương Tất Từ dịch lẻ tẻ từ những năm 1980, đăng trong các tạp chí và hợp tuyển. Dần dần Kafka được chú ý nhiều hơn, các tiểu thuyết chính của ông được dịch ra tiếng Việt: Vụ án - Hóa thân (Nhà xuất bản Văn học, 1989, gồm hai truyện: "Vụ án", Phùng Văn Tửu dịch từ tiếng Pháp, "Hóa thân", Đức Tài dịch từ bản tiếng Anh); Lâu đài (Trương Đăng Dung dịch từ tiếng Hung, Nhà xuất bản Văn học, 1998). Năm 2003, Tuyển tập tác phẩm Franz Kafka được Trung tâm Văn hóa và Ngôn ngữ Đông Tây liên kết với Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, tập hợp những tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt cho đến lúc đó, bao gồm "Vụ án", "Lâu đài", "Hóa thân", một số truyện ngắn, "Thư gửi Felice" và trích đoạn "Nhật ký Kafka"[183]. Năm 2013, Thư gửi bố do Đinh Bá Anh dịch từ nguyên bản tiếng Đức, được Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty cổ phần Văn hóa Phương Nam xuất bản. Từ năm 2015 đến năm 2017, lần lượt các bản dịch Vụ án, Lâu đài, Nước Mỹ do Lê Chu Cầu thực hiện từ nguyên bản tiếng Đức được Công ty cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam liên kết với Nhà xuất bản Văn học xuất bản.

Bên cạnh những vấn đề chung khi chuyển ngữ các tác phẩm văn học, việc dịch Kafka có những khó khăn riêng. Kafka ưa dùng một cách đặt câu trong tiếng Đức cho phép những câu văn rất dài, đôi khi cả một trang giấy, mạch ý của những câu như vậy có thể biến đổi ở ngay cuối câu – do trong một số câu tiếng Đức động từ chính được đặt ở cuối. Những cấu trúc như vậy không xuất hiện trong các ngôn ngữ khác và khó mà truyền tải được[184]. Chưa kể tiếng Đức vốn đa nghĩa và trong nhiều trường hợp khó mà phán đoán được Kafka muốn dùng với nghĩa nào. Cuối cùng, bản thân Kafka không viết bằng tiếng Đức cao chuẩn mà là một thứ tiếng Đức ở Praha pha tạp ngôn ngữ Yiddish và Séc[185]. Ở Việt Nam, các bản dịch Kafka lúc đầu không dịch từ tiếng Đức mà từ một bản dịch trung gian như tiếng Pháp, Nga, Hungary, Séc,...[186]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Franz_Kafka http://www.literaturhaus.at/headlines/1999/01/142/ http://www.smh.com.au/articles/2006/08/21/11560124... //nla.gov.au/anbd.aut-an35256821 http://www.atlegerhardsen.com/pages/lothar_hempel/... http://www.believermag.com/issues/200603/?read=art... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/309545 http://dokumente-online.com/kunst-und-kuenstlerver... http://www.ft.com/cms/s/2/bfaf51ba-e05a-11de-8494-... http://www.haaretz.com/news/sadness-in-palestine-1... http://www.jhom.com/bookshelf/kafka/intro.html